Các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi, cũng như Hydrogen không chỉ có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia mà còn góp phần thực hiện mục tiêu trung hoà cacbon vào năm 2050 mà Việt Nam đã cam kết tại COP 26.
Theo Quy hoạch điện VIII, tổng công suất đặt các nguồn điện đến 2030 là 150,489 GW. Trong đó, tổng công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới là 30.424 MW; điện gió ngoài khơi khoảng 6.000 MW. Như vậy, để đạt mục tiêu trong Quy hoạch điện VIII, 7 năm tới, Việt Nam cần phát triển khoảng 22.500 MW điện khí.
Thực tế, để thực hiện một dự án điện khí, điện gió bắt đầu từ khâu lựa chọn nhà đầu tư cho tới lúc đàm phán mua điện, thu xếp vốn và thực hiện hợp đồng EPC, dự án điện khí phải mất từ 7-8 năm, còn điện gió ngoài khơi là từ 6-8 năm. Theo Bộ Công Thương, năm 2030 sẽ có 13 dự án điện khí LNG được phát triển, song hiện mới có một dự án là nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4 với tổng công suất 1.500 MW đang thi công, dự kiến vận hành cuối năm 2024 và giữa 2025. Điều này cho thấy, để đưa các dự án điện khí, điện gió vào vận hành trước năm 2030 là thách thức không nhỏ.
Ngoài ra, thách thức trong phát triển điện khí LNG, điện gió ngoài khơi hiện nay cũng được các chuyên gia, doanh nghiệp chỉ ra là thiếu cơ chế pháp lý, hạ tầng. Nhiều dự án LNG đã triển khai, chuẩn bị đầu tư vướng về quy hoạch, thủ tục. Để giải quyết vấn đề này, Bộ Công Thương đã có văn bản đề nghị các địa phương sớm tháo gỡ, giải quyết các vướng mắc theo thẩm quyền để các nhà đầu tư triển khai dự án. Đối với những vướng mắc về cơ chế liên quan tới các luật, như: Luật Đất đai, Luật Giá, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực và các văn bản hướng dẫn các chuyên gia cho rằng cần cơ quan có thẩm quyền sớm sửa đổi, tháo gỡ./.
PV